Ông là con thứ 10 của Ðức Thánh Tổ, mẹ là Thục Tần Nguyển Thị Bảo.
Ông sinh ngày 24 tháng 10 năm Kỷ Mão (11-12-1819). Lúc mới sinh ra có tướng lạ.
Ðức Thế Tổ được tin rất mừng ban cho 10 lạng vàng. Thuỏ nhỏ Ông hay khóc và
nhiều bệnh, Thục Tần ngày đêm lo chăm sóc nhưng không được như ý. Chưa đầy năm,
càng khóc dữ, mắt tối lại mà có đường máu . Thục Tần quá lo, tìm mọi cách chữa
trị nhưng vô hiệu. Ðột nhiên có vị đao sĩ tên Vân đến xin gặp và bảo: "Ðây
là tinh khí của Thái Bạch Kim Tinh giáng xuống, cũng tốt lành." Quả nhiên
đúng như lời nói đó.
Năm 4
tuổi ông đỉnh ngộ lạ thường, theo học nữ sư ở trong cung. Lúc 7 tuổi được theo
học ở Dưởng Chính Ðường. Ông thường chịu khó học tập, không ham chơi, một lần
học thuộc lòng hơn cả trăm trang sách. Một hôm vào hầu Thục Tần thấy trên bàn có
chiếc quạt, trên đó có bài Ngũ Tuyệt đời nhà Ðường trong đó có nhiều chữ Ông
không hiểu được. Hôm sau Ông hỏi người giảng tập đó là thơ gì. Người nầy theo
sự hiểu biết của mình mà giảng giải, rồi Ông hỏi nghĩa, lại xin dạy cho luật
bằng trắc. Có thể thấy Ông thích hợp với thơ sớm như vậy.
Năm
Ðinh Hợi (1827), Ông được 9 tuổi đi theo Vua trong lề tế Nam Giao, có làm bài
Nam Giao thi. Sách gì Ông học cũng tường tận, hơi lớn đã học sử và thư, lại
thích phong cảnh núi sông, thích giao du với các văn sĩ nên kiến văn càng ngày
càng rộng rãi và có thi tập từ đó.
Lúc 16
tuổi Ông theo vua lên Ðàn Nam Giao có làm bài "Trai cung tùng thụ"
(Thông ở trai Cung), rồi lại được theo Vua lên Ngự Bình để ứng chế thi phú,
trong thơ có nhiều câu được mọi người tán thưởng.
Năm Kỷ
Hợi Ông được phong là Tùng Quốc Công, cho lập Phủ ở Phường Liêm Năng, gần Tĩnh
Phổ của Tuy Quốc Công, tức là Tuy Lý Vương. Thường ngày hai Ông cùng nhau xướng
họa thi văn.
Năm Kỷ Dậu
(1849), Ông thấy Mẹ tuổi già, nên xin xây riêng Tiểu Viện, rước Mẹ về phụng
dưỡng.
Năm Tân
Hợi (1851), gặp lễ tế Nam Giao, Ông theo Vua đến Trai Cung. Lễ triều xong, Vua
cho Ông ngồi, sai họa 8 bài xuân du (Ði chơi xuân) và một bài Hoa Thủy Tiên.
Chiều đến phụng mệnh Vua phê bình các bài thơ. "Vịnh thông" của các
hoàng đệ. Ðến đêm Vua lại cho vào chầu, để hỏi về 2 cuốn thơ "Ngư
Dương" và "Quy Ngu" hay dở ra sao. Ông cứ theo sở kiến của mình
mà tâu lên. Vua bằng lòng và ban thưởng cho chiếc Ngự y.
Tháng 8
năm đó Mẹ Ông mất. Nguyên trước kia Mẹ Ông được phong Thục Tần, nhưng vì làm
việc trái lẽ, nên bị tội thu lại sắc phong. Ðến lúc nầy, Ông dâng sớ cầu khẩn
xin lại sắc phong, lời lẽ rất thống thiết. Vua Dục Tông động lòng đặc ân cấp
lại. Ông lại dựng lều tranh cạnh mộ Mẹ, đau xót tiều tụy, lo lắng trọn lễ.
Năm
Giáp Dần (1854), Ông được phong là Tùng Thiện Công. Ông lại tâu xin mua 12 mẫu
tư điền ở xã Dương Xuân, cất nhà ở, gọi là Phương Thôn Thảo Ðường, đào mương
dẫn nước, tạo thành ao, gọi là Hoàng Tử Pha, trên ao có giường tre, là nơi uống
rượu ngâm vịnh, và cũng là nơi đọc sách.
Năm Mậu
Thìn (1868), lúc Ông mừng thọ 50 tuổi, vua ban cho vàng bạc, gấm lụa rượu trà,
văn phòng tứ phẩm và làm bài thơ "Hoài Công" (Nhớ đến công), ban cho,
khiến họa lại.
Ông mất
ngày 30 tháng 3 năm Canh Ngọ (10-04-1870) thọ 52 tuổi được ban thụy là Văn Nhã.
Vua rất thương xót, tự làm bài văn tế, sai Tuy Lý Vương dâng cúng. Tẫm của Ông
tại Dương Xuân (Hương Thũy, Thừa Thiên). Nhà thờ ở Phường Vĩnh Ninh (Thừa
Thiên).
Năm Mậu
Dần (1878) Ông được truy tặng Tùng Thiện Quận Vương.
Năm
Giáp Tý (1924) Ông được truy tặng Tùng Thiện Vương.
Ông là
người thông minh, học rộng, được triều đình chiếu cố. Khi Ông bị bệnh, Vua cho
ngự y chữa trị, ban sâm quế cùng thuốc quý, thường cho người đến thăm hỏi. Ông
gắng gượng dâng biểu lên Vua, trong biểu có câu:
"Sống
chết đều do mệnh, chỉ có một điều hận là không được thấy nước nhà như xưa. Trộm
nghĩ xây dựng cơ nghiệp là chuyện khó, nhưng gìn giữ chẳng phải dễ. Tài lực là
điều trọng, muốn an vui cần phòng bị, việc trị nước thì trên dưới phải một
lòng, đó là điều phúc cho Tông Miếu, điều may cho thiên hạ "
Ðến khi
bệnh quá nặng, Ông dặn dò con cháu nên cần kiệm trong tang lễ và cúng tế, xong
lấy tay vạch bài tuyệt cú.
""Bán
sinh học đạo thái hồ đồ,
Thoát
tỉ như kim nãi thực đồ,
Tiến
sáng đinh ba Thiên Mụ nguyệt,
Thúy
Hương lâm ánh hửu nhân vô .""
(Học
đạo nữa đời thật viễn vông,
Thoát
tĩ nẻo đường mới được thông,
Sóng
chốn sáng đình trăng Thiên Mụ,
Hương
Giang bóng mát biết hay không)
Văn Ông
lời lẽ trang nhã khuôn phép, rất xuất sắc về thơ. Vua Dực Tông từng sai Ông
soạn tập "Liệt Ðại Thi Tuyển Duyệt Bình" (Ðọc và bình thơ tuyển chọn
ở các đời) .
Lào
Sùng Quang, khâm sứ triều Thanh là Tiến sĩ đệ nhị giáp, khi đến kinh đô làm lễ
tuyên phong vào đầu đời Vua Tự Ðức đã cùng Ông xướng họa Thi văn. Ông đem thơ
đã làm cho Quang đọc và rất được ngợi khen. Trong bài Thương Sơn Thi Tập, Quang
có viết: "Thương Sơn có lẽ trời sinh ra để cậy làm khuôn phép, há chẳng
phải nước Nam
lấy đó làm đích cho thi nhân noi theo sao ".
Ông có
20 con trai và 12 con gái. Con thứ 8 của Ông là Nguyển Phúc Hồng Tích được tập
phong Huyện hầu.
Trích vietnamgiapha.com